ĐỨC TÂN GIÁO HOÀNG Francis (Phan-xi-cô) .


Kính mời Cộng đoàn xem qua chân dung và vài nét tiểu sử của Tân Giáo Hoàng Francis (Phan-xi-cô) .




        Sau 5 lần bỏ phiếu, vào lúc 19h07' ngày 13.03 (tức 1h07' ngày 14.03 giờ Việt Nam) những làn khói trắng đã bốc lên từ ống khói nhà nguyện Sistine, đồng thời những hồi chuông rung vang, hàng chục ngàn tín hữu có mặt tại Quảng trường Thánh Phêrê hò reo - Mật nghị Hồng y đã chọn ra được Đức Tân Giáo Hoàng, Hồng y Jorge Mario Bergoglio 76 tuổi người Argentina.

        Ngài lấy tước hiệu là 'Francis' (Phanxicô)









                                                                 



        Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô (Francis), năm nay 76 tuổi và sẽ mừng sinh nhật thứ 77 vào thánng 12 tới đây. Ngài nguyên là Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, sinh ngày 17 tháng 12 1936. Ngài là vị Giáo Hoàng thứ 266 của Giáo Hội Công Giáo, được bầu trong lần bỏ phiếu thứ 5. Ngài là Đức Giáo Hoàng đầu tiên được sinh ra ở châu Mỹ.
        Ngài đã từng là Tổng giám mục của Buenos Aires từ năm 1998 và đã được Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nâng lên hàng Hồng Y vào ngày 21 tháng Hai năm 2001 cùng trong một nghi lễ tấn phong Hồng Y với Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận của Việt Nam.
        Đức Tân Giáo Hoàng Jorge Bergoglio được sinh ra tại Buenos Aires, trong một gia đình có năm người con của một công nhân đường sắt người Ý. Sau khi học tại chủng viện Villa Devoto, ngài gia nhập Tu Hội Chúa Giêsu vào ngày 11 tháng Ba năm 1958. Ngài hoàn thành cử nhân triết học tại Đại Học Maximo San José ở San Miguel, và sau đó giảng dạy văn học và tâm lý học tại hai trường Inmaculada ở Santa Fe, và Salvador ở Buenos Aires. Ngài được Đức Tổng Giám Mục José Ramón Castellano phong chức linh mục vào ngày 13 tháng 12 năm 1969. Ngài tiếp tục khoa triết học và thần học tại San Miguel và trở thành giáo sư thần học.
         Nổi tiếng có tài lãnh đạo, Tu Hội Chúa Giêsu đã bầu ngài làm Giám Tỉnh Argentina từ năm 1973 đến 1979. Năm 1980, ngài trở thành giám đốc chủng viện San Miguel, nơi ngài đã được đào tạo. Ngài phục vụ trong cương vị đó cho đến năm 1986 trước khi sang Đức hoàn thành luận án tiến sĩ và trở về quê hương của mình để phục vụ như là cha giải tội và linh hướng tại Córdoba.
      Ngài thay Đức Hồng Y Quarracino vào ngày 28 tháng 2 năm 1998 trong chức vụ Tổng Giám Mục thủ đô Buenos Aires. Ngài cũng đồng thời được bổ nhiệm là Đấng Bản Quyền cho người Công Giáo Đông Phương ở Argentina.        Ngày 21 tháng Hai năm 2001, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tấn phong Hồng Y cho ngài với Hiệu Tòa là nhà thờ Thánh Robert Bellarmino.
      Ngài đã được bổ nhiệm vào một số vị trí trong Giáo Triều Rôma như Thánh Bộ Giáo sĩ, Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Thánh Bộ Đời Sống Tận Hiến và các Tu Hội Tông Đồ. Ngài cũng là một thành viên của Ủy ban châu Mỹ La tinh và Hội đồng gia đình.
      Đức Hồng Y Bergoglio nổi tiếng với sự khiêm tốn cá nhân, mạnh mẽ bảo vệ các học thuyết Giáo Hội và dấn thân cho công bằng xã hội. Ngài sống trong một căn nhà nhỏ, chứ không phải tại nơi cư trú nguy nga của giám mục.  Dù là Hồng Y, ngài thường sử dụng các phương tiện giao thông công cộng, và tự mình nấu ăn cho mình.
       Sau cái chết của Giáo hoàng John Paul II, Đức Hồng Y Bergoglio, đã được nhiều người coi là một ứng viên sáng giá vào ngôi Giáo Hoàng vào năm 2005. 
                            
                                                                                  Nguồn tin: VietCatholic

BẦU CỬ ĐỨC GIÁO HOÀNG



Kính mời Cộng đoàn xem những bài viết liên quan đến việc bầu chọn Đức Giáo Hoàng để thêm ý thức trong việc cầu xin Chúa sớm ban cho Hội Thánh một vị Cha Chung xứng đáng.



Mật tuyển viện 2013, vòng bỏ phiếu đầu tiên: chưa có kết quả

Khói đen bay ra từ lần bỏ phiếu đầu tiên trên ống khói nhà nguyện Sistine
WHĐ (13.03.2013) – Chiều hôm qua, 12-03-2013, các hồng y cử tri đã tiến hành vòng bỏ phiếu đầu tiên bầu chọn người kế vị thánh Phêrô, Giáo hoàng thứ 266. Qua truyền hình trực tiếp của Trung tâm truyền hình Tòa Thánh Vatican CTV, khán giả được chứng kiến nghi thức đặt tay trên sách Phúc Âm để tuyên thệ của từng vị hồng y. Sau lời công bố “Extra omnes! [Yêu cầu mọi người không phải là hồng y cử tri ra ngoài!] của Đức ông Guido Marini, Chưởng nghi Tòa Thánh, chỉ còn lại các hồng y cử tri trong Nhà nguyện Sistine, và cửa Nhà nguyện đóng lại. …
Lúc 19g45 ngày 12-03 (giờ Roma, tức 01g45 sáng hôm nay giờ Việt Nam), mọi người chờ đợi ở bên ngoài đã chứng kiến làn khói đen bay ra từ ống khói của Nhà nguyện Sistine, có nghĩa là vòng bỏ phiếu đầu tiên chưa có kết quả.
Các hồng y sẽ tiến hành vòng bỏ phiếu tiếp theo vào sáng hôm nay, thứ Tư 13-03.
 
                                                                         Minh Đức

***************************************


  THỂ THỨC  MẬT NGHỊ CONCLAVE BẮT ĐẦU ÁP DỤNG TỪ BAO GIỜ TRONG GIÁO HỘI?
   Nhân các Hồng Y sẽ họp Mật nghị ( Conclave ) ngày mai thứ ba 12 tháng 3  
để bầu Tân Giáo Hoàng cho Giáo Hội, xin được giải thắc mắc của nhiều đọc giả về nguồn gốc  truyền thống này như  sau:
   Trước hết về từ ngữ,  "Conclave"  bắt nguồn từ tiếp ngữ Latin "Con" có nghĩa là  " với=with" và Clave xuất phát từ La ngữ Clavis  có nghĩa là "chìa khóa=key".. Từ nguyên ngữ Latinh này, Conclave được dùng để chỉ việc các Hồng Y họp mật  để chọn Tân Giáo Hoàng cho Giáo Hội ( đóng cửa khóa các ngài lại trong phòng kín  cho đến khi bầu xong),  Đó là tất cả ý nghĩa của từ Mật Nghị=Conclave đã được áp dụng từ năm 1274 dưới triều  Đức Giáo Hoàng Gregory X ( 1272-1276)  cho đến nay  , nhằm để ngăn chặn những can thiệp , hay áp lực từ bên ngoài muốn khuynh đảo việc chọn Giáo Hoàng trong những thập niên trước năm 1274.
Ngoài ra, Biện pháp " khóa cửa để bầu" cũng nhằm tiến hành mau chóng việc bầu tân Giáo Hoàng vì có thời ngôi Giáo Hoàng ( papacy) đã phải bỏ trống đến gần 3 năm vì chưa có thể bầu xong ai lên ngôi kế vị Thánh Phêrô.
    Đó là trường hợp đã xảy ra khi Đức Giáo Hoàng Clement IV mất năm 1268, nhưng mãi ba năm sau,  18 Hồng Y họp tại Viterbo mới bầu được Đức Gregory X  lên kế vị  ( 1271--1276).
   Được biết,  trong thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, khi chưa có các Hồng Y,  thì việc chọn Giáo Hoàng được thực hiện qua việc bầu Giám Mục Rôma của các giáo sĩ và giáo dân Rôma dưới sự chứng kiến của các Giám mục  khác trong Giáo Tỉnh (Province). Nhưng theo thời gian, giáo hữu và giáo sĩ gia tăng  thì lại xảy ra những tranh chấp giữa các  ứng viên thuộc giai cấp cao  (patricians)  và giai cấp thấp (plebeians), phe nào cũng muốn tiến cử người ra tranh ngôi Giáo Hoàng. Cụ thể là đã có lúc một Giáo Hoàng được bầu lên (Thánh Giáo Hoàng Damasus I (366-384. A. D) và một ngụy Giáo Hoàng (antipope) Ursinus  cũng được bầu lên năm 366 để tranh ngôi với Giáo Hoàng Damasus. Cuộc tranh dành này đã đi đến bạo động khiến Toàn Quyền  (Prefect) Rôma phải can thiệp để giúp ổn định.
Mặt khác, lại có thời  các Hoàng Đế Rôma  muốn can thiệp vào nội bộ của Giáo Hội, đưa đến sự tranh giành giữa  các thế lực trần thế dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, mà trong giới hạn của một bài viết,  không thể nói hết chi tiết được.Tuy nhiên, phải  nói một  chi tiết quan trọng  là Ngôi vị  Giáo Hoàng, -từ đầu cho đến nay-  không những là địa vị tối cao của người kế vị Thánh Phê rô trong chức năng và sứ mệnh cai trị  Giáo Hội thay mặt cho Chúa Kitô trên trần gian, mà còn là tước vị được các thế lực thế quyền ( secular powers) dòm ngó và muốn không chế. Đó là thời kỳ đen tối  của Giáo Hội khi  thế quyên  (secular power)  muốn chi phối thần quyên (divine power) và ngược lại.
 
   Nhưng với ơn soi sáng, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã thoát ra khỏi thời kỳ đen tối đó để càng ngày  càng trở  nên xứng đáng là Thân Thể Nhiệm Mầu của Chúa Kitô trên trần gian với sứ mệnh được trao phó là  tiếp tục Sứ Vụ rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng cứu độ của Chúa Cứu Thế Giêsu trên khắp trần gian  cho đến ngày  cánh chung tức tận cùng của thời gian.
   Liên quan đến việc bầu Giáo Hoàng,  cũng cần nói thêm là trước năm 1917, thường dân (lay people) cũng có thể được chọn làm Hồng Y để có thể được bầu làm Giáo Hoàng. Nhưng Giáo luật năm 1917  đã ngăn cấm việc này và từ đó đến nay tước Hông Y chỉ được chọn trong hàng ngũ Giám mục và linh mục xuất sắc mà thôi.Vì linh mục có thể được chọn làm Hông Y,  nên Giáo Luật mới ban hành năm 1983 qui định là " nếu Tân Giáo Hoàng chưa có chức Giám mục thì phải được truyền chức Giám mục trước khi nhậm chức Giáo Hoàng. (x Giáo luất số 351& 1, 355 & 1)
    Như đã nói ở trên, năm 1272 Đức Thánh Cha Gregory X đã đê trình Công 
Đồng Lyons thứ hai những  thay đổi trong luật bầu cử  nhằm tiến hành nhanh chóng việc bầu cử  với phương thức Mật Nghị (Conclave) để đảm bảo sự vô tư và bí mật của việc chọn lưa Tân Giáo Hoàng.. Những thay đổi này được áp dụng cho đến ngày 1 tháng 10 năm 1975 khi Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành Hiến Chế Romano Pontifici Eligendo với  một số thay đổi về luật  bầu cử  Giáo Hoàng , theo đó chỉ có các Hồng Y dưới 80 tuổi  mới được quyền bỏ phiếu bầu  (elector)  mà thôi,  và giới hạn số Hồng Y được bầu là 120 vị.
     Nhưng Luật  bầu cử  trước sau đều  đòi buộc các Hồng Y  tham dự Mật Nghị phải tuyệt đối giữ bí mật và không được chịu bất cứ ảnh hưởng nào từ bên ngoài trong khi thi hành nhiệm vụ chọn Tân Giáo Hoàng cho Giáo Hội. Theo truyền thống đã có từ lâu, thì Nhà Nguyện Sistine được dành làm nơi diễn ra những cuộc bỏ phiếu kín của các Hồng Y. Hiện nay, ngoài khu vực Nhà Nguyện Sistine, toàn thể khu vực nơi các Hông Y ăn nghỉ trong thời gian có Mật Nghị cũng đều được ngăn cách hoàn toàn với bên ngoài, kể cả việc cắt đứt mọi phương tiện liên lạc như điện thoại và internet.
   Tóm lại, truyền thống họp mật nghị (Conclave) mới có từ thời Đức Giáo Hoàng Gegory X áp dụng từ năm 1274 cho đến nay nhằm bảo đảm sự tuyệt đối giữ kín tiến trình bầu cử khi các Hồng Y cử tri (electors) và cũng là các ứng viên có thể được bầu (potential candidates) nhưng không ra tranh cử khi vào Mật Nghị. 
Nghĩa là  bất cứ Hồng Y đủ điều kiện  nào khi vào Mật Nghị, cũng có thể được bầu lên ngôi Giáo Hoàng, nhưng không ai ra tranh cử và được bỏ phiếu cho chính mình.
Chúng ta sốt sắng cầu xin Chúa Thánh Thần để các Hồng Y bắt đầu Mật Nghi ngày thứ ba 12-3  sớm chọn được Tân Giáo Hoàng cho Giáo Hội đúng với ý muốn và chương trình của Thiên Chúa, chứ không phải là mong ước của bất cứ ai bên ngoài Giáo Hội.

                                             LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
                
                      **************************************

THƠ



    
 THI CA TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY-C
                                
                                       (Lc 15, 11-32)




 DỤ NGÔN TÌNH YÊU

Chuyện người con thứ đi hoang
Chuyện anh con trưởng đàng hoàng, ngờ đâu!
Chuyện Cha bạc trắng mái đầu
Ngày ngày tựa cửa âu sầu ngóng con
Dụ ngôn xưa cũ vẫn còn
Gương soi đèn sáng sắt son mọi thời:
“Tình Cha Thiên Chúa cao vời
Tình người ích kỷ thói đời nhỏ nhen!
Thế trần còn lắm bạc đen
Thế nhân ganh ghét, bon chen, hận thù
Bỏ Cha, con thứ dại ngu
Kể công, con cả sa mù tối tăm
Tình yêu biệt bóng xa xăm
Đời là Hỏa Ngục hờn căm đọa đày!”

Tình yêu Thiên Chúa nhiệm thay
Đốt lòng nguội lạnh, uốn ngay tâm tà
Sửa cho ngay chính sâu xa
Nhỏ nhen nhường chỗ bao la tình người
Đâu tình yêu đấy nụ cười
Thiên đàng hạ giới vẹn mười bình an.
    ----------------------------------
           Giu-se Nguyễn Văn Sướng

GIA ĐÌNH



Tháng Thánh Giu-se, kính mời Cộng đoàn xem bài viết của Đức Cha Giu-se Ngô Quang Kiệt nói về Gia đình. Bài do anh Nguyễn Huy Hoàng sưu tầm.




                CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC

      Những tranh ảnh về Thánh gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giu-se làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Đức Giê-su phụ giúp Thánh Giu-se. Phải chăng Thánh gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết  đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại, Thánh gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.
      Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà  biết bao gia đình sinh ra bất hoà. ấy thế mà Thánh gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
      Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hê-rô-đê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà thánh Giu-se đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu thánh Giu-se đã bị dày vò đau đớn đến mức nào.
       Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà thánh Giu-se và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại đền thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quí đã cãi lời cha mẹ?
      Những sóng gió mà thánh gia phải đương đầu như  thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vần giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
      Trước hết các ngài luôn luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên chúa. Tìm ý  Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong các giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
       Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm mẹ Đấng Cứu thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giu-se đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giu-se tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giê-su. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên chúa. Còn Đức Giê-su là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
      Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết  áp dụng những bí quyết của Thánh gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
       Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
     Lạy Thánh gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con. Amen.
                               
                            KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc âm, hay là  đi xem bói?
2- Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?
3- Qua tấm gương của Thánh gia, tôi có quyết tâm gì  để xây dựng hạnh phúc gia đình trong năm mới? 

                                                                                                                                               + TGM Giuse Ngô Quang Kiệt 

THƠ MÙA CHAY



        Mùa Chay, mùa thuận tiện để con cái trở về với Cha, mùa Thiên Chúa yêu thương khi nhìn thấy đoàn con thành tâm tìm về với Chúa...





    MÙA TÍM DỊU DÀNG

Mùa về ngập tím sắc không gian
Tím cả lời ca, tím giọt đàn
Huyền ảo tím lên màu phẩm phục
Dịu dàng tím cả tiếng kinh than

Lao xao tiếng gió tím yêu thương
Thong thả chuông ngân vọng Thánh đường
Tím mãi hoàng hôn màu nhắc nhở
Tím mùa chay tịnh khói hương vương

Tím lên Thánh Giá tím Bàn Thờ
Tím đến mênh mang tím ước mơ
Mầu nhiệm ai sơn mà tím ngát
Êm đềm phủ lịm tím câu thơ.
      -------------------------------
      Giu-se Nguyễn Văn Sướng

THI CA TIN MỪNG



TIN MỪNG CHÚA NHẬT III MÙA CHAY-C

(Lc 13, 1-9)


KHÓI VƯƠNG LAU DẬP

Người ta kể chuyện Ngài nghe
Phi-la-tô đã răn đe rợn rùng
Ra tay sát hại chẳng dung
Lễ dâng máu trộn hòa cùng xác thân
Giê-su cảnh báo toàn dân:
“Nếu không sám hối ân cần các ngươi
Cuộc đời chết hết mười mươi
Si-lô-ác đổ đè tươi kia kìa
Phải người chết tội đầm đìa?
Ai không sám hối ngày kia y sì!
Kìa xem cây vả trơ lỳ
Chủ ra tìm trái chẳng gì trên cây
Gọi người chặt phứt kẻo rầy
Người làm năn nỉ xin Thầy thư thư
Năm nay chăm bón, bằng như
Sang năm không trái chẳng từ chặt đi”

Trăm năm đằng đẳng ngắn chi
Chúa chờ, Chúa đợi người khi quay về
Cây lau đã dập ê chề
Tim đèn ngún khói não nề thê lương
Thế mà Người vẫn cứ thương
Thương lau dập nát, khói vương tim đèn
Bài thơ con viết ca khen
Lòng thương xót Chúa bao phen đợi chờ.
     -----------------------------------
                                                                         Giu-se Nguyễn Văn Sướng

Bài Giáo Lý Cuối Cùng



Cộng đoàn kính mến. vào lúc 20g00 tối nay (28/2/2013), sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI chính thức có hiệu lưc, đồng nghĩa Ngai Giáo Hoàng sẽ chính thức trống ngôi. Mời Cộng đoàn xem lại bài nói chuyện cuối cùng của Ngài trước Quảng trường Thánh Phê-rô ngày 27/2/2013.

                                                       


Bài Giáo Lý Cuối Cùng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
                             
                                                     
                                                                       


“Tôi luôn biết rằng có Chúa ở trong thuyền, và tôi luôn biết rằng thuyền Hội Thánh không phải là của tôi, không phải là của chúng ta, nhưng là của Chúa. Và Chúa sẽ không để nó bị chìm”




Dưới đây là bản dịch bài giáo lý trong buổi triều yết cuối cùng của ĐTC Bênêđictô XVI, tại Quảng trường Thánh Phêrô hôm Thứ Tư, ngày 27 tháng 2 năm 2013.





* * * 
Các Huynh Đệ đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục!
Thưa các Vị Hữu Trách!
Anh Chị Em thân mến!
Cảm ơn anh chị em đã đến dự buổi triều yết cuối cùng của triều đại Giáo Hoàng của tôi với một số người thật đông như thế này.
Hết lòng cảm ơn anh chị em! Tôi thực sự xúc động! Và tôi thấy Hội Thánh vẫn đang sống! Và tôi nghĩ rằng chúng ta cũng phải cảm tạ Đấng Tạo Hóa thời tiết đẹp mà Ngài ban cho chúng ta lúc này khi vẫn còn trong mùa đông.
Như Thánh Tông Đồ Phaolô trong bài Thánh Kinh mà chúng ta đã nghe, trong lòng tôi, tôi cũng cảm thấy phải đặc biệt cảm tạ Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và làm cho Hội Thánh tăng trưởng, là Đấng đang gieo Lời của Ngài và do đó nuôi dưỡng đức tin của Dân Ngài. Vào lúc này, tâm hồn tôi mở raôm ấp toàn thể Hội Thánh trên toàn thế giới, và cảm tạ Thiên Chúa vì “những tin tức” mà trong những năm trong sứ vụ Giáo Hoàng, tôi đã có thể nhận được về đức tin trong Chúa Giêsu Kitô, và về tình yêu được luân chuyển một cách thực sự trong Thân Thể của Hội Thánh và làm cho nó sống trong tình yêu, cùng về niềm hy vọng mở ra cho chúng ta và hướng dẫn chúng ta đến sự viên mãn của cuộc sống, hướng về quê hương trên trời.
Tôi cảm thấy rằng tôi mang tất cả anh chị em trong lời cầu nguyện, trong một hiện tại là hiện tại của Thiên Chúa, ở đó tôi gom lại mi cuộc gặp gỡ, mi chuyến tông du, mi cuộc thăm viếng mục vụ. Tôi gom lại tất cả mọi sự và tất cả mọi người trong cầu nguyện để phó thác cho Chúa, ngõ hầu chúng ta có thể biết trọn Thánh Ý Ngài, trong tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết tâm linh, và để chúng ta hành xử một cách xứng đáng với Ngài và tình yêu của Ngài, bằng cách mang lại hoa quả trong mọi việc lành (x. Col 1:9-10).
Vào lúc này, tôi cảm thấy rất tin tưởng, bởi vì tôi biết, tất cả chúng ta đều biết, rằng lời chân lý của Tin Mừng là sức mạnh của Hội Thánh, đó là sự sống của Hội Thánh. Tin Mừng thanh tẩy và đổi mới, sinh hoa kết quả, bất cứ nơi nào cộng đồng tín hữu nghe và nhận được ân sủng của Thiên Chúa trong chân lý và bác ái. Đây là sự tin tưởng của tôi, đây là niềm vui của tôi.
Khi ấy vào ngày 19 tháng tư gần tám năm trước đây, tôi đã chấp nhận gánh vác sứ vụ của Thánh Phêrô, tôi đã có một niềm tin chắc chắn luôn luôn đi kèm với tôi: niềm tin chắc chắn này vào sự sống của Hội Thánh, vào Lời Chúa. Vào lúc ấy, như tôi đã nói nhiều lần, những lời đã được vọng lên trong tâm hồn tôi là: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?  Đây là một gánh nặng lớn mà Chúa đật trên đôi vai con, nhưng nếu đây là điều Chúa muốn con làm, thì vâng lời Chúa, con sẽ thả lưới, với niềm tin tưởng chắc chắn rằng Chúa sẽ hướng dẫn con, ngay cả với tất cả những yếu đuối của con. Và tám năm sau, tôi có thể nói rằng Chúa đã thực sự hướng dẫn tôi, Người đã gần gũi tôi, tôi có thể cảm thấy sự hiện diện của Người mỗi ngày. Đó là một phần của cuộc hành trình của Hội Thánh là cuộc hành trình đã có những lúc vui mừngsáng sủa, nhưng cũng có những lúc khó khăn.  Tôi đã cảm thấy như Thánh Phêrô và các Tông Đồ trong thuyền trên Biển Hồ Galilêa, Chúa đã cho chúng ta nhiều ngày nắng làn gió nhẹ, những ngày đánh được rất nhiều cá, và có những lần biển động cùng gió nghịch chiều, như trong toàn thể lịch sử Hội Thánh, và Chúa dường như ngủ. Nhưng tôi luôn biết rằng có Chúa ở trong thuyền, và tôi luôn biết rằng thuyền Hội Thánh không phải là của tôi, không phải là của chúng ta, nhưng là của Chúa. Và Chúa sẽ không để nó bị chìm, Chính Người dẫn đạo nó, chắc chắn qua những kẻNgười đã chọn, bởi vì Người muốn như thế.  Đây là một điều chắc chắn mà không có gì có thể làm lu mờ. Và đó là lý do tại sao hôm nay tâm hồn tôi tràn đầy lòng biết ơn Thiên Chúa vì Ngài đã không bao giờ để cho toàn thể  Hội Thánh hoặc tôi thiếu sự an ủi, ánh sáng tình yêu của Ngài.
Chúng ta đang trong Năm Đức Tin, mà tôi đã muốn củng cố đức tin vào Thiên Chúa của chúng ta trong một bối cảnh dường như đang càng ngày càng đẩy nó vào hậu trường.  Tôi muốn mời mỗi người tái xác nhận niềm tin tưởng vững chắc vào Chúa, tín thác như trẻ em nằm trong vòng tay Thiên Chúa, yên tâm rằng những cánh tay ấy luôn nâng đỡ chúng ta và là điều cho phép chúng ta bước đi mỗi ngày, ngay cả trong những mệt nhọc. Tôi muốn mỗi người cảm thấy mình được yêu thương bởi Thiên Chúa ấy là Đấng đã ban Con Ngài cho chúng ta và cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Ngài. Tôi muốn mọi người cảm nhận được niềm vui của việc là một Kitô hữu. Trong một kinh nguyện đẹp được đọc hàng ngày vào buổi sáng, có nói rằng: Lạy Thiên Chúa của con, con thờ lạy Chúa, con yêu mến Chúa hết lòng hết sức. Con cảm tạ Chúa vì đã dựng nên con, đã cho con làm Kitô hữu….” Phải, chúng ta rất vui mừng vì hồng ân đức tin, là điều quý giá nhất, không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta được! Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa mi ngày này, bằng cầu nguyện và bằng một đời sống Kitô hữu thích hợp. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nhưng cũng mong chúng ta yêu mến Ngài!
Nhưng tôi không chỉ muốn cám ơn Thiên Chúa mà thôi vào lúc này. Một Giáo Hoàng không hướng dẫn thuyền của Thánh Phêrô một mình, ngay cả khi trách nhiệm đầu tiên của ngài. Tôi đã không bao giờ cảm thấy cô đơn trong việc gánh vác niềm vui và gánh nặng của sứ vụ giáo hoàng. Chúa đã đặt tôi cạnh tôi nhiều người, với lòng quảng đại và tình yêu đối với Thiên Chúa và Hội Thánh, đã giúp đỡ và gần gũi tôi. Trước hết là các anh em, các hiền huynh Hồng Y thân yêu: sự khôn ngoan, các lời khuyên tình bằng hữu của các anh em thật là quý giá đối với tôi; các cộng sự viên của tôi, bắt đầu với Hồng Y Quốc Vụ Khanh, người đã trung thành đồng hành với tôi trong những năm qua, Quốc Vụ Khanh và toàn thể Giáo Triều Rôma, cũng như tất cả những người phục vụ Tòa Thánh trong các lĩnh vực khác nhau: có nhiều khuôn mặt không lộ ra ngoài, họ vẫn ở trong bóng tối, nhưng chính trong sự thinh lặng này, trong công việc hàng ngày của họ, trong tinh thần đức tin và khiêm tốn, họ đã là sự nâng đỡ vững chắc và đáng tin cậy của tôi. Tôi đặc biệt nghĩ đến Hội Thánh ở Giáo Phận Rôma, Giáo Phận của tôi! Tôi không thể quên các anh em trong Hàng Giám Mục và Linh Mục, những người được thánh hiến và toàn thể Dân Thiên Chúa: trong các cuộc thăm viếng mục vụ, các buổi gặp gỡ, các buổi triều yết, các chuyến tông du của tôi, tôi đã luôn luôn cảm nhận được sự chăm sóc tuyệt vời và tình cảm sâu đặm, nhưng tôi cũng yêu thương tất cảtừng người, không trừ ai, với đức ái mục vụ là điều nằm ở trong lòng của mọi mục tử, đặc biệt là Giám Mục Rôma, Người Kế Vị Thánh Tông Đồ Phêrô. Mỗi ngày, tôi đã nhớ đến từng người trong anh chị em trong những lời cầu nguyện của tôi, với tất cả tấm lòng của một người cha.
Vậy, tôi muốn gửi lời chào mừng và cám ơn đến tất cả mọi người: tâm hồn của một Giáo Hoàng trải rộng ra cho toàn thế giới. Và tôi cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi dành cho Ngoại Giao Đoàn cạnh Tòa Thánh, là cơ quan làm cho một đại gia đình của các quốc gia được hiện diện. Ở đây tôi cũng nghĩ đến tất cả những người làm việc cho một truyền thông tốt đẹp và cảm ơn họ vì việc phục vụ quan trọng của họ.
Vào lúc này, tôi muốn hết lòng cảm ơn tất cả mọi người trên thế giới, trong những tuần gần đây đã gửi cho tôi những bằng chứng cảm động của sự chú ý, tình bằng hữu và cầu nguyện. Vâng, Giáo Hoàng không bao giờ cô đơn, giờ đây tôi lại cảm nghiệm nó một lần nữa một cách quá tuyệt vời đến nỗi nó chạm vào quả tim tôi. Giáo Hoàng thuộc về tất cả mọi người và rất nhiều người cảm thấy rất gần với ngài.  Thật sự là tôi nhận được những lá thư từ những nhân vật quan trọng trên thế giới – từ các quốc trưởng, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các đại diện của thế giới văn hóa và nhiều người khác. Nhưng tôi cũng nhận được rất nhiều thư từ những người bình dân, họ viết cho tôi chỉ đơn thuần từ lòng họ và làm cho tôi cảm thấy tình cảm của họ, phát sinh từ việc cùng nhau ở với Chúa Giêsu Kitô, trong Hội Thánh. Những người này không viết cho tôi theo cách một người viết, như viết cho một hoàng tử hoặc một vĩ nhân mà họ không biết. Họ viết cho tôi như anh chị em, như con cái trai gái, với ý thức về những mối liên hệ gia đình rất trìu mến. Ở đây người ta có thể trước hết cảm nhận được Hội Thánh là gì, không phải là một tổ chức, một hiệp hội với mục đích tôn giáo hay nhân đạo, nhưng một thân thể sống động, một cộng đồng anh chị em trong Thân Thể của Chúa Giêsu Kitô, Đấng hợp nhất tất cả chúng ta. Để kinh nghiệm Hội Thánh theo cách này và hẩu như có thể sờ bằng hai bàn tay của anh chị em quyền năng của chân lý và tình yêu của Hội Thánh, là một nguồn vui, trong một thời kỳ mà nhiều người nói về sự suy thoái của Hội Thánh. Chúng ta hãy xem Hội Thánh vẫn sống động hôm nay như thế nào!
Trong những tháng gần đây, tôi cảm thấy sức của tôi đã giảm, và trong cầu nguyện tôi đã tha thiết nài xin Chúa soi sáng cho tôi bằng ánh sáng của Người để tôi quyết định đúng không phải vì lợi ích của tôi, nhưng vì lợi ích của Hội Thánh. Tôi đã thực hiện bước này trong ý thức đầy đủ về mức độ nghiêm trọng cũng như sự mới mẻ của nó, nhưng với một sự bình an sâu xa trong tâm hồn. Yêu Hội Thánh cũng có nghĩa là có can đảm để có những lựa chọn khó khăn, đau khổ, nhưng luôn luôn đặt trước mặt mình lợi ích của Hội Thánh chứ không của bản thân mình.
Ở đây, tôi xin mạn phép một lần nữa trở lại ngày 19 tháng 4 năm 2005. Mức độ nghiêm trọng của quyết định cũng nằm chính ở sự thể là từ giây phút đó, tôi đã bận rộn luôn và mãi mãi với Chúa.  Luôn luôn - người nào đảm nhận sứ vụ giáo hoàng không còn có bất kỳ sự riêng tư nào. Người ấy hoàn toàn thuộc về mọi người, thuộc về toàn thể Hội Thánh.  Có thể nói nói rằng đời sống của người ấy hoàn toàn bị mất đi chiều kích riêng tư. Tôi đã kinh nghiệm, và tôi đang kinh nghiệm chính lúc này rằng một người nhận được sự sống khi cho nó đi.  Tôi đã nói trước đây rằng nhiều người yêu Chúa cũng yêu Người Kế Vị Thánh Phêrô và thích ngài, rằng Giáo Hoàng thực sự có anh em và chị em, con trai và con gái trên toàn thế giới, và rằng ngài cảm thấy an toàn trong vòng tay hiệp thông của họ, bởi vì ngài không còn thuộc về mình, thuộc về tất cả và tất cả thuộc về ngài.
Cái luôn luôn” cũng là một cái “mãi mãi” – không có việc trở lại với lãnh vực riêng tư. Quyết định của tôi từ bỏ việc tích cực thực thi sứ vụ, chứ không phải rút lại sứ vụ này. Tôi sẽ không trở lại đời sống riêng tư, một đời sống du lịch, gặp gỡ, tiếp kiến, hội nghị, vv. Tôi không từ bỏ Thánh Giá, nhưng tôi ở lại một cách mới mẻ với Chúa Chịu Đóng Đinh. Tôi không còn mang quyền bính của chức năng điều hành Hội Thánh nữa, nhưng vẫn còn ở lại trong sứ vụ cầu nguyện, nghĩa là, trong giới hạn của Thánh Phêrô. Thánh Bênêđictô, tên ngài tôi mang như Giáo Hoàng, sẽ là một gương sáng vĩ đại cho tôi trong việc này. Ngài đã chỉ cho chúng ta con đường đến một đời sống, tích cực hay tiêu cực, hoàn toàn thuộc về công trình của Thiên Chúa.
Tôi cảm ơn mỗi người và tất cả mọi người vì sự tôn trọng và thông cảm mà với chúng anh chị em đã chấp nhận quyết định quan trọng này. Tôi sẽ tiếp tục đi theo cuộc hành trình của Hội Thánh bằng cầu nguyện và suy niệm, với sự quyết tâm đối với Chúa và Hiền Thê của Người, mà [với Hội Thánh ấy] tôi đã cố gắng sống mỗi ngày đến bây giờ và tôi muốn sống mãi mãi [với Hội Thánh này]. Tôi xin anh chị em hãy nhớ đến tôi trước mặt Thên Chúa, và trên hết là cầu nguyện cho các Hồng Y, những vị được gọi vào một nhiệm vụ rất quan trọng, và cho Người Kế Vmới của Thánh Phêrô; nguyện xin Chúa cùng đi với ngài bằng ánh sáng và quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta hãy nài xin sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Hội Thánh, để Mẹ đồng hành với mỗi người trong chúng ta và toàn thể cộng đồng Hội Thánh; chúng ta hãy phó thác chính mình cho Mẹ với lòng tin tưởng sâu xa.
Các bạn thân mến! Thiên Chúa hướng dẫn Hội Thánh của Ngài, Ngài luôn luôn nâng đỡ Hội Thánh, và đặc biệt là trong những thời kỳ khó khăn. Chúng ta không bao giờ đánh mất cái nhìn đức tin này, đó là cái nhìn đúng đắn duy nhất về con đường của Hội Thánh và của thế giới. Trong tâm hồn chúng ta, trong tâm hồn mỗi người trong anh chị em, luôn luôn sự chắc chắn vui mừng rằng Thiên Chúa ở gần chúng ta, rằng Ngài không bỏ rơi chúng ta, Ngài gần chúng ta và bao bọc chúng ta bằng tình yêu của Ngài. Cảm ơn anh chị em!
                              
                                Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ