HẠNH PHÚC HIỆN TẠI
HẠNH PHÚC HIỆN TẠI
Có không biết bao nhiêu cặp vợ
chồng, từ bao nhiêu năm cứ để mặc tình trạng “khắc khẩu”, tình trạng “xung
khắc” bất hòa giữa hai vợ chồng kéo dài năm này tháng nọ. Họ không buồn bỏ
một chút thì giờ để tìm hiểu lý do của sự khắc khẩu, sự nghịch ý và tìm cách
khắc phục để gia đình có một đời sống hạnh phúc, an vui.
Họ không ý thức được rằng, hạnh
phúc có sẵn trong hiện tại, trên con đường chúng ta đang đi…
|
Chỉ một việc chúng ta được sống
độc lập, nghĩa là có thể thấy, nghe, đi, đứng, ăn uống, không bệnh hoạn, có
cơm ăn, có áo mặc, có nhà ở và được bình yên đã là một hạnh phúc vô cùng
trong đời, mà ít người ý thức, vì người ta cứ mải mê theo đuổi những mộng
tưởng xa xôi, thả hình bắt bóng.
Nếu tuần nào không bận rộn với
những sinh hoạt cộng đồng, hai vợ chồng tôi đi ăn nhậu tiệc tùng ở nhà bạn
bè, sẽ có dịp nghe các bà, sau khi ăn no kéo nhau ra phòng khách, đem ông
chồng yêu quý của mình ra tố khổ.
Câu chuyện của chị Hồng làm tôi
suy nghĩ rất nhiều, từ câu chuyện đó tôi suy ra một triết lý… sống hạnh phúc
ngay bây giờ và ở đây.
Chị Hồng kể, chị với hai con qua
Mỹ mấy mẹ con vất vả lúc đầu nhưng dần dần đã tạo được cuộc sống tốt đẹp. Chị
mua được một cái nhà hàng nho nhỏ và các con đã ăn học nên người. Hơn mười
năm sau ông chồng sang Mỹ. Trong thời gian xa cách hơn một chục năm đó hai
người đã hoàn toàn thay đổi. Chị Hồng đã quen đời sống Tây phương, tháo vát,
lanh lợi, còn ông chồng, sức khỏe yếu kém, ông rất chậm chạp, có thể nói là cù lần so
với bà vợ.
Tinh thần chị
Hồng luôn bị căng thẳng, lo âu vì việc làm ăn buôn bán, cạnh tranh, lại thêm
thân xác quá mệt mỏi vì làm việc nhiều giờ ở nhà hàng nên lúc nào chị cũng
cau có, gắt gỏng như bệnh thần kinh hay xì-nẹc vô lý, càng làm cho ông chồng
thêm buồn tủi thân phận sống bám vào vợ.
Một hôm ông chồng
bệnh, bảo chị Hồng rót cho một ly sữa. Chị càu nhàu: - Thì ông đi lấy đi, còn
đi được, chưa bệnh nặng mà.
Ông chồng đổ
quạu: " tôi bệnh bà biết không?
Chị Hồng với tay
lấy ly nước trà chị đang uống, đổ sửa vô rồi đem lại cho ông chồng. Chị dằn
mạnh cái ly lên bàn nói “uống đi”, rồi quay lưng đi.
Ông chồng nổi
giận bắt đầu to tiếng: - Bà đã đi quá mức của một người vợ, không coi chồng
ra gì!.
Chị Hồng trả lời
lại: - “Bây giờ bình quyền rồi, không có chuyện chồng chúa vợ tôi. Ai cũng
phải làm việc để kiếm sống, không ai hầu ai cả”.
Chị lằng nhằng
không dứt lời.
Ông chồng thấy
cái gì màu đen giống con ruồi trong ly sữa, ông la lên: - Bà cho tôi uống sữa
với ruồi, bà biết không?
Chị Hồng bình
thản đáp: - Thì vớt nó ra. Hồi xưa, đang ăn phở con ruồi bay rớt vô tô phở
mình vớt bỏ đi, rồi ăn tiếp có sao đâu.
Ông chồng nổi
cơn, nhắc lại đủ thứ chuyện buồn phiền chất chứa trong lòng bấy lâu nay. Ông
chồng chưa dứt lời thì bà vợ phản pháo ngay bằng những lời lẽ thật đanh đá.
Cả hai trao đổi nhau những câu nói chanh chua, độc ác cho hả giận.
Trong cơn nóng
giận đó, họ không có thì giờ suy nghĩ, cân nhắc từng lời nói, nên những lời
lẽ thật tàn nhẫn, độc địa được bắn thẳng vào tai, vào tim hai người và đã để
lại nhiều vết thương không hàn gắn được.
Không dằn được
cơn giận, anh chồng nói: ”Không thể tiếp tục được nữa, phải ly dị”.
Bà vợ trả lời
ngay: - Càng sớm càng tốt, bỏ ông ra tôi dư sức lấy một chục thằng hơn ông.
Ông chồng không
chịu thua nói: - Phen này ông về quê, ông lấy gái còn trinh chứ không lấy bà
già ó đâm như bà .
Chị Hồng chạy vội
ra xe : - Tôi đi tới văn phòng luật sư ký giấy ly dị ngay bây giờ đây.
Tại văn phòng
luật sư, chị Hồng gọi điện thoại về cho hay luật sư đòi phải đặt trước hai
ngàn đô và không trả lại nếu sau này họ đổi ý không muốn ly dị. Ông chồng
đồng ý ngay, rồi buồn bã đứng dậy bước lại bồn rửa chén, đổ ly sữa. Bên cửa
sổ có ánh sáng, anh chồng mới thấy miếng đen trong ly sữa là lá trà trong ly
chị Hồng đã uống. Thì ra cả hai vợ chồng cãi nhau rùm beng, làm mất đi một
buổi sáng đẹp trời chỉ vì xớn xác thấy lá trà mà tưởng là con ruồi. Anh chồng
ân hận cho sự nóng nảy của mình. Không phải hai vợ chồng chỉ mất đi một buổi
sáng đẹp trời mà mất luôn hai ngàn đô, đấy là may nếu không thấy lá trà thì
họ đã ly dị, gia đình ly tan, con cái buồn khổ, chỉ vì nóng nảy, lầm lẫn. Lúc
nóng giận đầu óc người ta không sáng suốt, nói nặng không tiếc lời.
Hai vợ chồng tiếp
tục sống chung, ăn chung, ngủ chung nhưng không hạnh phúc, không ai
nhường nhịn ai. Ai cũng có cái “ngã” quá to, tự cho mình đúng rồi rống họng
cãi, mạt sát lẫn nhau. Họ để mặc cho tình trạng khắc khẩu kéo dài vì tin là
tuổi của họ xung khắc, số con chuột, con mèo, con rắn, con heo gì đó… tứ hành
xung, vì tình nghĩa không ly dị, nhưng không thể sống thuận hòa, hạnh phúc
với nhau được.
Một hôm có một
người khách đến ăn ở nhà hàng đưa cho chị Hồng xem hình họ vừa xây một căn
nhà rất khang trang bốn từng lầu tuyệt đẹp ở quê nhà mà tốn có bảy chục ngàn
mỹ kim. Chị Hồng cầm cái hình ngắm tới ngắm lui thích quá, muốn về xây một căn như vậy cho cha mẹ ở bây giờ và
một ngày nào đó về hưu hai vợ chồng về quê, thì có căn nhà tiện nghi. Ở đây
chắc con cái sẽ bỏ cha mẹ vô viện dưỡng lão, thêm buồn tủi.
Thế là chị Hồng
tự ý bay về quê hương hai tháng để tận mắt trông coi việc xây cất căn nhà
theo ý chị muốn. Trước khi đi chị dặn dò mấy đứa con, coi chừng ba, đừng để
ổng đi nhậu nhẹt, gặp gỡ bà này bà nọ lúc mẹ vắng nhà. Hai đứa con nghe lời
mẹ, để ý canh chừng ông già. Ông chẳng đi đâu cả, buổi tối sau khi đóng cửa
nhà hàng về ông ngồi gõ lóc cóc trên keyboard computer đến quá nửa đêm,
“chat” với mấy cô gái muốn lấy chồng Việt Kiều. Chỉ trong vòng hai tháng là
tình nồng say đắm nẩy nở giữa chồng chị và cô gái tuổi đáng con . Câu chuyện
tình ảo trên net đã thúc đẩy anh chồng quyết về Quê hương một chuyến để gặp
người tình trong mộng, trên net.
Khi chị Hồng trở
về Mỹ, hí hửng với mấy cái hình căn nhà khang trang ở quê hương thì ông chồng
chị quyết liệt đòi về để xem tận mắt căn nhà. Cố nhiên chị Hồng không cho ông
ta về một mình, cho chồng về một mình rất nguy hiểm, dễ bị các cô gái tơ quyến rũ. Nhưng nay với tình yêu thúc đẩy
ông chồng chị Hồng quyết “quật khởi” , không chịu đựng sự chỉ huy, theo ý
kiến của vợ nữa. Chị Hồng giận lẫy, cảnh cáo là khi ông trở về thì ông cuốn
quần áo ra khỏi nhà. Ly dị. Ông chồng nghĩ bụng “càng tốt”.
Khi về tới, việc
đầu tiên là anh chồng đi tìm gặp người tình trên net.
Trời ơi! Hình
trên net thì cô ta đẹp và duyên dáng, còn trên thực tế thì xấu ơi là xấu và
qua nhiều câu chuyện thì anh chồng thấy rõ là cô này “bắt địa”, moi móc tiền
Việt kiều hơn là có tình yêu chân thật. Cô này muốn đi Mỹ với bất cứ giá nào,
chuyện sống hạnh phúc hay không thì hạ hồi phân giải, còn ly dị cũng không
sao, miễn được đi Mỹ. Ông chồng thất vọng, lo ngại, tiếc công xúc tép nuôi
cò, không biết cò ở với ông được bao lâu mà trước mắt là phải hy sinh bà vợ
già... Sau vài lần gặp gỡ anh chồng quyết ở lại với vợ “ta về ta tắm ao ta”
cho chắc ăn.
Từ đấy ngày nào
anh ta cũng o bế đưa ông bà già vợ đi ăn , đi chơi, như một thằng rể có hiếu.
Chị Hồng ở nhà lục lạo hết phòng này tới tủ nọ cố tìm một chứng tích để hiểu
vì sao ông nhất quyết đòi về, phải có một động cơ nào đó thúc đẩy ông ta mới
quyết liệt như vậy.
Moi móc hết quần
áo ở mọi góc kẹt, chị mới thấy một hộp bánh biscuit được gói kỹ, tim chị đập
mạnh, hội hộp mở ra từ từ, trong đó có một cuốn sổ tay nhỏ và một xấp thơ cũ
giấy đã bạc màu. Chị mở cuốn sổ nhỏ ra đọc mới biết đó là quyển nhật ký, ông
chồng viết rất ngắn gọn những tâm tình thật buồn tủi về cuộc đổi đời, bây giờ
không còn uy quyền của một cấp chỉ huy, một người chồng, người cha trong gia
đình… Ông ghi lại sự chịu đựng, chấp nhận cuộc sống hiện tại, nhất là nỗi
buồn tủi phải sống bám vào vợ, vì tuổi đã lớn không thể làm lại từ đầu…
Đọc tới đây chị
Hồng thấy cảm động ứa nước mắt, bây giờ chị mới cảm thông, thương xót, tội
nghiệp chồng.. Từ trước tới giờ mỗi lần nổi cơn là chị la cho hả giận, chứ
không hề nghĩ tới tinh thần ông chồng đã bị khủng hoảng trước cuộc đổi đời,
và chị cũng không biết giọng nói thường nhật vô tình của chị đã làm chạm tự
ái ông chồng rất nhiều, đã để lại trong tâm thức ông nhiều đau thương, buồn
tủi không tả được.
Chị Hồng bỏ cuốn
nhật ký xuống, đọc tiếp xấp thư, thì ra đây là những cái thư chị đã gởi cho
anh chồng từ lúc hai người mới yêu nhau. Chị thật xúc động khi thấy anh chồng
vẫn còn giữ kỹ những kỷ vật này.
Chị đọc cái thư
thứ nhất, có những lời lẽ thật ngọt ngào, nũng nịu dễ thương "anh dễ
ghét ghê! Anh biết là xa anh em nhớ anh thấy mồ không? Lần sau hễ em gọi điện
thoại, dù anh bận đến đâu anh cũng phải gọi lại liền, nếu không em sẽ bắt
đền…” Kèm theo thư là cái hình chị lúc 18 tuổi. Trời lúc đó mặt mũi xinh ghê,
đã xinh đẹp còn ngọt ngào nữa chẳng trách ông chồng trồng cây si, đòi làm đám
cưới sớm. Cái thư có ép hoa pensée nữa, tình thuở ấy thiệt là thơ mộng.
Chị Hồng với tay
lấy cái gương trên bàn, soi lại mặt mình bây giờ…hỡi ơi, năm tháng đã để lại
trên mặt chị nhiều nếp nhăn, đã già nua mà lúc xì-nẹc chị còn cau có, chẳng
trách sao bây giờ chồng muốn thương mà thương không vô.
Chị Hồng đọc tiếp
cái thư thứ hai, cái nào cũng có kèm theo một cái hình rất xinh, hồi đó có
bao nhiêu tiền mấy cô gái cũng đem đổ cho máy tiệm chụp hình ăn.
Trong thư chị
viết: “ Em nhớ buổi chiều mình dạo chơi trong công viên, trời bắt đầu mưa nhẹ
hạt, anh ôm, che mưa cho em, trong vòng tay thương yêu của anh, em cảm thấy
thật ấm êm, hạnh phúc. Em mong vòng tay thương yêu này che chở em mãi suốt
cuộc đời…” .
Chị Hồng nhớ lại …mới cách đây mấy hôm, hai vợ chồng
lái xe khi trời tuyết. Nhìn những bông tuyết rơi
nhẹ càng thú vị
hơn mưa rơi nhiều, nhưng bây giờ già hay quạu bậy, đường trơn trợt , ông
chồng ghì chặt tay lái, trong lúc chị càu nhàu:
- Ông lái xe kiểu
gì kỳ cục vậy, sang “lane” sao không ra signal, hồi nãy bảo đi đường trong
ông không chịu, ông đi đường ngoài bây giờ không nhớ đường. Tôi nói với ông
hoài, lên xe thì phải coi bản đồ trước, định hướng, bây giờ sắp trễ chuyến
bay mà còn lần quần không biết đường, khổ không?.
Ông chồng cự lại:
- Bà giỏi bà lái đi!
- Tôi không lái
xe được trên xa lộ, trời tuyết.
- Không lái được
thì im đi để người ta lái. Đã lạc đường còn nghe cằn nhằn có bực không?
Cái thư thứ ba cũng
có lời lẽ nồng nàn tha thiết lắm.
-Em mong khi mình
về sống với nhau rồi, mỗi đêm em sẽ đưa anh vào “rose garden”
(vườn hồng) thật
thơ mộng.
Thực tế bây giờ
cứ mỗi lần ông chồng lại gần thì chị nhăn nhó: - Mệt quá đi thôi! làm việc
đầu tắt mặt tối cả ngày mà tới giờ này ông còn bắt làm thêm job đêm!
Ông chồng chịu
đấm ăn xôi, choàng tay qua ôm vợ.
Chợt nhớ tới mấy
cái bills, chị Hồng hỏi :
-Cái bill nước
anh trả chưa, nếu để trễ là họ cúp nước cho mà coi.
Nghe cúp nước ông
chồng hoảng quá, tuột xuống giường đi tìm cái bill coi đã trả chưa.
Vừa trở lại đặt
lưng xuống giường nằm thì chị Hồng nói, đã nhắc anh bỏ vô băng IRA hai ngàn
để được trừ thuế, anh bỏ chưa?. Cái máng xối rớt tòn teng cả tháng nay, chừng
nào anh mới sửa?
Ông chồng kêu
trời: - Trời ơi! sao cứ tới giờ tôi leo lên giường nằm cạnh bà, bà hỏi đủ thứ
chuyện như vầy, làm sao hứng nổi, thôi bỏ mẹ nó qua hết đi, tính sau…
Xếp lại xấp thư
cũ, chị Hồng ưu tư nghĩ đến hai chữ “vô thường”, quả thật vạn vật luôn đổi
thay. Từ một cô gái xinh đẹp hiền dịu nay trở thành bà già xấu xí, hay gắt
gỏng, khó thương. Ngày này qua ngày khác chị đã quá bận rộn chạy đua với cuộc
sống đến nỗi không có thì giờ dừng lại để suy nghĩ, tìm hiểu coi mình đã sống
như thế nào? Mình đã sống với ý thức hiện hữu và sống hạnh phúc trong từng
phút, từng giây hiện tại?
Vì cuộc sống quá
bận rộn, bon chen để cung ứng những nhu cầu, tiện nghi vật chất, rõ ràng là
chị đã đánh mất quá nhiều hạnh phúc hiện tại của mình cho những vọng tưởng
điên đảo, được, mất, hơn , thua, vinh, nhục, buồn, giận, thương, ghét. Khoắc
khoải trong âu lo, toan tính, sân hận , thù oán, trong nuối tiếc ký ức, trong
ước vọng tương lai và ngay cả giờ phút này chị cũng đang lao chao vọng
động…sự bất an có mặt thường trực trong đời sống tinh thần, tâm linh của chị.
Chỉ những giây
phút thật lắng đọng tâm tư như thế này chị mới thấy thương chồng và ân hận về
cách cư xử tồi tệ với chồng. Ngày hôm sau chị quyết định làm mới lại cuộc
tình bằng cách sẽ sửa đổi để được dễ thương như ngày xưa. Chị đi chợ mua cho
chồng vài cái cà vạt, vài đôi vớ, quần áo mới, rồi gói lại cẩn thận trong
giấy kiếng màu thật đẹp, như gói quà Giáng sinh. Chị dự định khi chồng về chị sẽ bịt mắt anh chồng lại, đem quà ra
bày một bàn rồi mở mắt anh ta ra cho xem, chắc chắn là anh ta sẽ rất vui mừng
và hạnh phúc trước sự đổi mới này .
Trong lúc chị
đang quyết tâm làm mới lại cuộc đời thì có người bạn rủ chị đi dự lớp thiền ở
chùa gần nhà, chị nhận lời đi ngay. Ở thiền đường, các thiền sinh ngồi thành
một vòng tròn. Bên cạnh thầy, tất cả cùng thư thả uống trà và bàn chuyện đạo
(trà đàm) và nghe pháp thoại, có lúc cùng nhau hát những bài thiền ca, để ý
thức sự sống nhiệm mầu trong giờ phút hiện tại, vui như trẻ thơ. Trong môi
trường trong sáng này, chị cảm thấy như đã thoát vòng tục lụy, bước vào niết
bàn ở thế gian. Chưa bao giờ chị có được cảm giác an lạc thanh thản, tâm hồn
rộng mở, tha thứ, bao dung, vui tươi, hồn nhiên như vậy.
Thầy giảng về sự
“cảm ơn” và “ái ngữ”. Trong lúc lắng nghe chị nhìn xuống như để thấm thấu hết
những lời giảng vàng ngọc của thầy. Suy nghĩ kỹ lại thì chị chưa bao giờ nói
lời cảm ơn chồng và con cái, mà chính thực chị đã mang ơn họ rất nhiều. Chồng
là người đầu gối, tay ấp đã chia xẻ với chị biết bao nhiêu khổ cực, buồn vui
của cuộc sống. Chị cũng chẳng có để ý tới hai chữ “ái ngữ” là những lời nói
êm đẹp, đem lại hạnh phúc cho nhau. Từ trước tới giờ hễ nổi cơn lên là chị
nói, chị nói bất cứ cái gì vụt hiện ra trong óc, nói cho hả giận, không cân
nhắc, đắn đo hậu quả gì cả.
Càng nghe thầy
giảng chị càng ân hận cho những gì mình đã nói, đã làm một cách vô minh từ
trước tới giờ. Tối hôm đó, chị gọi điện thoại cho chồng với những lời lẽ rất
ngọt ngào, êm dịu, chị dặn dò anh chồng cứ vui chơi bên nhà, khi về thì nhớ mua
cho chị mấy thức ăn như khô cá thiều, khô lan phòng, mứt me…chị thực sự nôn
nóng mong cho mau qua một tuần để đón chồng về. Cuộc đời của hai người từ nay
sẽ đổi khác, sẽ không còn khắc khẩu , xung khắc như trước nữa.
Hai ngày sau, đứa
cháu gọi điện thoại qua cho hay chồng
chị bị “Nhồi máu cơ tim” trong lúc tắm biển với mấy cháu và tắt thở trên
đường đưa tới bệnh viện cấp cứu. Chị vội vã bay về Quê nhà , cố nhiên chị đem
theo những món quà đã gói trong giấy kiếng thật đẹp. Lúc tẩn liệm, chị đã
liệm theo quan tài những món quà này với thật nhiều nước mắt…đã muộn rồi!.
Ai cũng biết đời
là vô thường, hãy sống trọn vẹn những giờ phút hiện tại, biết là biết vậy
nhưng người ta cứ để cho đời trôi lãng, để cho biết bao phiền muộn cứ hòa
quyện theo tâm hồn ta trong mỗi phút giây. Có một lúc nào đó dừng lại, thử
hỏi, chúng ta đã bỏ biết bao nhiêu sinh lực, công sức để có được một tình yêu
như ý, một danh vọng như ý, một tài sản như ý và rằng chúng ta thực sự đã
sống với cái “như ý” đó một cách hạnh phúc không? Rõ ràng là chúng ta vẫn còn
nhiều phiền muộn và cay đắng mà phần lớn là bởi bám víu, dính mắc với “cái
tôi”, “ cái của tôi”, và cái tự ngã của tôi”. Đó là chưa kể cái tâm thức đang
bị thiêu đốt bởi những khao khát, ước mơ và lo âu …
Để thoát ly mọi
phiền não, để xa lìa mọi mộng tưởng, đảo điên, cuồng si, chúng ta hãy tập
sống buông xả , “không phân biệt”. Hãy ý thức mình đang sống, trong từng hơi
thở, trong mỗi bước chân, hãy an trú vững chắc trong hiện tại - sống hạnh
phúc ngay bây giờ và ở đây.
Trích
CTTTHNGĐ
Minh Thuy Linh sưu tầm và gởi đăng
|
THẬP ĐẠI BỊNH
THẬP ĐẠI BỊNH
(Ghi lại bài nói chuyện của Đức Tổng Giám
mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận với giới trẻ Việt Nam tại Strasbourg,
Pháp, chiều ngày 12.9.1998)
|
Giới thiệu
Muốn thành công trước
hết phải chữa trị tận gốc mười (10) chứng bịnh làm băng hoại xã hội ngày
nay.
Cuộc sống cộng đồng và Giáo hội, không
những ở Việt Nam
mà ngay cả ở hải ngoại, hiện đang có những bất ổn.
Không
hoặc chưa phát huy được nét tích cực của mình. Do đâu ?
Có rất nhiều căn
nguyên. Những căn nguyên này là những chứng bịnh vừa nguy hiểm vừa truyền
nhiễm đang hoành hành trong xã hội, và có cơ nguy làm cho cuộc sống xã hội
băng rã. Tôi qui chúng lại thành mười bệnh lớn: Thập đại bịnh.
|
Bệnh này thể hiện qua
tâm trạng chỉ nhớ và khen cái quá khứ của mình mà thôi và đóng khung lại
trong đó. Tôi thỉnh thoảng gặp giáo dân và ai cũng
hớn hở tâm sự: “Thưa cha, chúng con thấy sung sướng nhất là thời còn Đức khâm
sứ . Chúng con đi rước kiệu đầy đường phố, quanh cả bờ hồ Hoàn Kiếm, và thấy
Đức khâm sứ quỳ trên chiếc xe, tay cầm Mình Thánh Chúa, mặt ngài sáng láng đỏ
hồng như mặt trời. Không biết bao giờ chúng con mới trở lại được như thời kỳ
có Đức khâm sứ!”. Ta không quên quá khứ, vì đó là bài học kinh nghiệm, nhưng
ta không dừng lại đó, ta nhìn tương lai để xây dựng còn đẹp hơn xưa.
Bà con chỉ sống trong
quá khứ, mong trở về quá khứ. Mà thời gian thì bao giờ quay trở lại !
Tôi đi nhiều nơi, gặp
nhiều anh chị em tới một tuổi nào đó. Chén thù chén tạc bên nhau than thở:
“Biết bao giờ bọn mình trở lại được thời xưa. Mọi thứ rẻ mạt. Lương
tháng mấy nghìn. Một tạ gạo giá chỉ mấy trăm bạc. Sướng thiệt !”.
Ta đang ở năm 1998,
làm sao mà lùi lại 1960 được !
Do vậy mà chúng ta đâm
ra thiển cận. Thay vì nhìn tới thì lại nhìn lui. Giống như người lái xe,
không nhìn đằng trước mà cứ chăm chăm vào kính chiếu hậu để ngắm xe sau. Vậy
làm sao mà tiến được.
Mà dù thế nào thì mình
vẫn phải sống. Quá khứ không bao giờ trở lại. Và thời gian thì cứ tiến mãi.
Nhìn lại gương Chúa
Giêsu. Từ trời cao xuống thế, Ngài cứ nhắm tới, một mạch đi tới và cứ nói:
“Thầy sẽ lên thành Giêrusalem chịu nạn”. Ngài dư biết cuộc tử nạn sẽ rất đau
đớn, nhưng vẫn đi tới, chấp nhận. Bởi qua cái đau khổ đó con người được cứu
độ.
Cũng vậy, nếu chúng ta
muốn cho Đất nước và Giáo hội mình tiến, thì phải nhìn về tương lai. Không
quên quá khứ, vì đó là bài học cho tương lai. Nhưng đừng có viễn mơ lui lại
quá khứ.
Mỗi người, mỗi thời
đại đều có cái hay, cái đẹp. Phải làm sao biết khai triển cái hay cái đẹp đó
cho hiện tại đang sống, chứ đứng đó mà than thở tiếc nuối thì ích gì ! Nhìn
quá khứ để tạ ơn Chúa, để sám hối. Nhìn hiện tại để hăng say phục vụ với
trách nhiệm – Nhìn tương lai với hy vọng.
2. Bệnh tiêu cực bi
quan
Những người mang bệnh
này cứ chỉ trích kinh niên. Khi nào cũng có chuyện để chỉ trích.
Bệnh chỉ trích phát
sinh từ lòng ích kỷ hoặc kiêu căng. Một biểu hiện song hành của bệnh này là
người chỉ trích thường hay thiếu tự tin.
Người tiêu cực cái gì
cũng chỉ trích. Nhưng khi được yêu cầu đưa đề nghị thì “để xem đã”, hoặc có
ai đưa ra đề nghị gì thì lại lắc đầu “không làm nổi đâu” !
Người tiêu cực thì bất
cứ một cơ hội nào cũng là một tai họa cho mình (for the pessimists every
opportunity is a calamity). Trái lại, người lạc quan thì bất cứ tai họa nào
cũng là một cơ hội cho mình (for the optimists every calamity is an
opportunity).
Người ta kể câu
chuyện: Một công ty lớn gởi hai đại diện sang một nước Phi châu để nghiên cứu
thị trường tiêu thụ giày dép. Trở về điều trần, một vị lắc đầu: Thưa quý vị,
không có cách gì tiêu thụ được; người dân ở đó chỉ đi chân đất, có ai đi giày
dép đâu ! Trong khi đó vị kia lại hớn hở: Thưa quý vị, chuyến này chúng ta thắng
lớn; cả một lục địa mênh mông chưa có ai có giày dép để đi cả !
Người tích cực thì lạc
quan. Kẻ tiêu cực bi quan. Tùy theo cách nhìn mà vấn đề nẩy sinh. Người Pháp
nói: Đừng trách rằng tối; tối là vì mình không chịu thắp đèn lên thôi ! Đức
Gioan Phaolô II kêu gọi: “Đừng sợ”, vì ta tin vào Thiên Chúa quyền
năng và yêu thương, ta tin con người có thiện chí, ta tin vào mình có Chúa
giúp.
3. Bệnh phô trương
chiến thắng
Làm gì cũng chỉ nhắm
chuyện phô trương là chính. Bệnh này tiếng pháp gọi là triomphalisme; người
Mỹ cũng có từ ngữ show up.
Thỉnh thoảng đây đó
đọc trên những bản tin sinh hoạt cộng đoàn thật nức lòng: Đại lễ tổ chức vô
cùng thành công, cuộc rước kéo dài cả nửa cây số, nhiều chục cha đồng tế, bữa
tiệc kết thúc thật linh đình, bà con vô cùng hoan hỉ, chưa có bao giờ và có
ai tổ chức được lớn như thế … Nhưng hết tiệc ra về rồi là hết. Đại lễ hôm qua
hôm nay thành quá khứ xa lơ. Cảm xúc hôm qua hôm nay gọi mãi chẳng thấy về
!Hãy cai chứng bệnh phô trương ,vì cái chiều
sâu thực sự ít ai quan tâm. Ta bảo sáng danh Chúa, nhưng xét cho kỹ Chúa mấy phần trăm, ta mấy phần trăm?
Có những điều không
cần phải phô trương. Nhưng nó sẽ từ từ thấm vào lòng người, người ta sẽ hiểu.
Người ta hiểu, nhưng đồng thời người ta cũng có tự ái. Càng huyênh hoang,
càng làm cho người ta ghét. Mà thành công đâu phải do mình tài giỏi gì. Nhưng
mọi chuyện là nhờ ơn Chúa. Như vậy mình càng không có lý do gì để phô trương.
Lúc đang huyênh hoang thì chính là lúc nguy hiểm nhất, tai hại nhất, vì đó là
lúc mình mất cảnh giác. Khi nào thấy sau một cuộc lễ, có nhiều người ăn năn
trở lại, Cộng đoàn hiêp nhất hơn, sốt sắng hơn, đó là dấu thành công thực sự.
4. Bệnh cá nhân chủ
nghĩa
Các nhà phân tích cho
hay người Âu châu bị bệnh này nặng hơn. Nhưng mình cũng không kém. Thời đại
này đâu đâu cũng nghe người ta hô hào đoàn kết (Solidarité). Mà xem ra càng
hô hào đoàn kết chừng nào, thì bệnh cá nhân lại nặng chừng nấy !
Biểu hiện của bệnh
này: Mình là nhất, là trung tâm của vũ trụ. Mình chiếm độc quyền, ngay cả độc
quyền thờ Chúa, độc quyền yêu Nước. Không muốn ai chia sẻ với mình, vì sợ
người ta hơn. Người ta không tiếp tay với mình thì trách. Nhưng khi tiếp tay
thì lại chỉ muốn họ đứng sau lưng mình mà thôi.
Cá nhân chủ nghĩa phát
sinh từ lòng ích kỷ. Kính Chúa, yêu người thực chất là vì mình, vì lợi cho
mình chứ chẳng phải vì Chúa vì người gì cả.
Người ta kể chuyện
vui: Một số Hồng y và Giám mục ngồi ăn cơm chung với Đức Thánh Cha. Có mấy vị
hỏi ngài: Thưa ĐTC, nghe nói có bí mật Fatima,
ĐTC có thể nói cho chúng con nghe được không. ĐTC bảo: Bí mật mà, nói sao
được. Nghe thế các ngài càng tha thiết: ĐTC đừng sợ, chúng con cam đoan sẽ
dấu rất kỹ, không hở miệng. Sau năm lần bảy lượt nghe năn nỉ, ĐTC mỉm cười
trả lời: Đức Mẹ Fatima bảo rằng đóng cửa Đức
Mẹ Lộ-Đức lại !
Câu chuyện khôi hài
này muốn nói lên cái cá nhân chủ nghĩa của con người ngày nay. Đức Mẹ Fatima sợ Đức Mẹ Lộ Đức nổi tiếng hơn và do đó khách
hành hương đến viếng đông hơn nên đề nghị dẹp Lộ-Đức.
Chẳng đâu xa xôi.
Quanh ta cũng không thiếu thí dụ. Hai nhà thờ cạnh nhau, chuông bên này kêu
thì bên kia phải làm sao để kêu hơn. Câu chuyện nầy có thật. Một giáo xứ xin
Đức cha cho một quả chuông. Về đánh lên thì bà con giáo xứ bên cạnh sốt ruột
khó chịu, liền cùng nhau kéo xin phép đổi một quả chuông lớn hơn. Khệ nệ mang
về, đánh lên thì ai nấy thất vọng. Tưởng chuông lớn hơn thì tiếng phải hay
hơn. Ai dè âm thanh của chuông thường đã được định chuẩn sẵn; theo nốt nhạc,
cái chuông mới trùng một nốt nhạc với chuông cũ!
Trong Giáo hội có một
điểm quan trọng, đó là tính đa diện (Pluralité). Giáo hội không đòi hỏi phải
đồng bộ, nhưng trân trọng nét cá biệt của mỗi giáo hội địa phương. Khác nhau
hầu bổ túc cho nhau, chứ không phải để rồi tôi đi đường tôi anh đi đường anh.
5. Bệnh lười biếng
tránh né
Triệu chứng của bệnh
này là sợ tốn sức tốn của, sợ liên lụy, a dua: ai mạnh thì hùa theo. Khi nói
thì rất hăng, nhưng vào việc thì viện đủ lý do để che đậy cái hèn nhát và
lười biếng của mình. Giữa đại hội thì phát biểu thật hùng hồn, lúc phân việc
thì lẩn đâu mất.
Chuyện kể hai nhà
thông thái nọ muốn tìm hiểu xem thành phố Rôma có mấy người làm việc. Họ bắt
đầu bằng một chuỗi phân tách loại trừ. Trước tiên trừ đi con số trẻ em chưa
đến tuổi làm việc, đến số người bệnh tật, số người ở tù, rồi số dân biểu nghị
sĩ quanh năm suốt tháng chỉ cãi nhau và dơ tay bỏ phiếu bất tín nhiệm chính
phủ, số người làm nghề phê bình đá bóng… Cứ thế mà trừ, kỳ cùng chỉ còn lại
hai người làm việc, đó là hai nhà thông thái. Nhưng rồi một ông lên tiếng ngay:
tôi từ nãy giờ tính toán quá mệt rồi, nên chi tôi bầu anh làm việc tiếp để
tôi nghỉ !
Để xây dựng cộng đoàn
có trăm công ngàn việc. Việc gì cũng đáng làm. Chẳng cần phải ngồi ghế lãnh
đạo mới là làm việc. Việc nào cũng có thể nên thánh, miễn là làm cho tới nơi
tới chốn.
Khi ở Dublin một tháng để học hỏi về Đạo binh Đức
Mẹ tôi may mắn được gặp người sáng lập, ông Frank Duff. Tôi háo hức, tưởng sẽ
diện kiến một nhân vật quốc tế tiếng tăm; người mà các Hồng y, Giám mục khắp
nơi đều phải ngồi nghe. Nhưng không ngờ, ông chỉ là một cụ già đưa thư. Hàng
ngày khiêm tốn đạp chiếc xe cọc cạch ra bưu điện mang thư về cơ quan, bỏ vào
hộp thư của gần một ngàn chi nhánh Đạo binh ở Dublin. Ngưởi ta nói công việc của ông bây
giờ chỉ có thế; có tuổi rồi không còn giữ vai trò quan trọng nào nữa; nhưng
khi ai cần ý kiến thì ông sẵn sàng đóng góp và hướng dẫn giải quyết.
Đấy, công việc đưa thư
hèn mọn có làm giảm tư cách con người đâu!
6. Bệnh chuẩn mực trần
tục
Lấy tinh thần, não
trạng trần tục làm chuẩn mực cho cuộc sống mình. Làm việc Chúa, nhưng không
theo tinh thần Phúc Âm mà lại dùng tiêu chuẩn hoàn toàn trần tục để chuẩn
định. Người công giáo kiểu đó thường hay trở thành công giáo tùy thời: Thịnh
thì công giáo, suy thì chối. Công giáo vụ lợi: Có mùi vật chất thì tới, không
thì miễn. Công giáo danh dự: Chỉ siêng năng xuất hiện khi có lễ lạc được mời
lên ghế danh dự, không thì biệt tăm chẳng bao giờ thấy.
Nhiều khi chẳng phải
là bản chất, chẳng tội lỗi gì, nhưng là vì mình đua đòi. Chính đua đòi này
làm cho cuộc đời khổ sở. Sang đây thấy người ta có xe đẹp, nhà rộng; mình đua
đòi muốn hơn người nên phải nô lệ cho công việc, cả nhà làm việc quá mức.
Và chuẩn mực trần thế
thường được căn cứ theo báo chí, truyền thanh truyền hình. Báo bảo cái gì hay
là hay, cái gì số đông theo là tốt…mặc dù những cái đó không hợp với lương
tâm.
Năm ngoái tôi ghé Na
Uy tới thăm một bà giáo sư giữ một ghế thứ trưởng trong nội các. Na Uy đa số
theo Tin lành và Giáo hội này, như tại các nước Tin lành khác, phải tùy thuộc
thế quyền. Bà phàn nàn: nguy quá cha ơi, Giáo hội chúng tôi đang sa lầy trong
vòng kềm toả dư luận. Chính phủ ra lệnh cho Giáo hội; Quốc hội ra lệnh (bằng
đạo luật) cho chính phủ; mà
đạo luật thì lại hình thành do áp lực dư luận truyền thông; vừa rồi chính phủ mới cách chức hai mục sư vì họ chống lại việc phá thai!
Một số cơ quan truyền
thông chửi bới Đức Giáo hoàng, kết ngài vào tội thiếu thực tế, thiếu tiến bộ.
Nhưng khi Đức Giáo hoàng đến với giới trẻ thì hàng triệu anh chị em trẻ lại
tuôn đến với ngài. Tất cả chỉ vì ngài là người dám nói lên sự thật, bất chấp
dư luận. Tuổi trẻ hôm nay đang bị chao đảo trong một thế giới khủng hoảng
niềm tin và giá trị. Nên chi họ cần
người tín cẩn dám nói thẳng cho họ đâu là điều đúng, đâu là sai. Cái khó và nguy hiểm của ngày hôm nay là người ta phạm tội, nhưng lại bắt cả nhà nước và Giáo hội coi đó là nhân đức. Chẳng hạn như chuyện đồng tính luyến ái. Dư luận đang bắt mọi giới phải xem đó là chuyện hợp luân thường đạo lý. Giáo hội thương cảm, nhưng Giáo hội cần nói sự thật. Đức Thánh cha nói: “không cần ai bỏ phiếu cho sự thật” vì sự thật vẫn là sự thật.
7. Bệnh đợi chờ phép
lạ
Cứ chờ cứ đợi người
khác, mà bản thân mình chả chịu làm gì. Mình có làm thì Chúa mới giúp được
chứ. Chúa sinh ra mình không cần hỏi ý mình, nhưng để cứu mình Ngài phải cần
đến sự cộng tác của ta.
Có bà suốt ngày cầu
với Chúa: Con bao nhiêu ngày tháng hy sinh cho cộng đoàn. Nấu cơm, nấu chè,
hết việc này đến chuyện nọ. Đâu cũng có mặt. Giúp ngày không đủ tranh thủ
giúp đêm giúp thêm giờ nghỉ ! Con chỉ xin Chúa có một điều, vậy mà Chúa không
chịu đoái nghe. – Chứ con xin điều gì ? – Dạ xin Chúa cho con trúng vé số,
chỉ cần trúng một lần độc đắc thôi ! – Ừ mà Chúa cũng đang đợi bà đây ! – Dạ
Chúa đợi gì con đây ? – Thì Ta đang đợi bà mua vé số !
Trong một vụ lụt xe
cứu thương rảo khắp phố phường kêu gọi người dân rời nhà di chuyển lên nơi
cao để tránh nước lũ. Ông bố của một gia đình bảo với con cháu: Tụi bây đứa
nào đi thì đi, còn tao không đi; tin tưởng phó thác vào Chúa thì sao Ngài bỏ
rơi được. Nước lũ tới, dâng cao. Ghe cấp cứu lại kêu gào tản cư gấp. Ông già
kê bàn kê ghế leo lên rồi giục: Mẹ con
bây đi thì đi nhanh lên, tao không. Nước tiếp tục dâng cao, ông già leo lên mái nhà ngồi. Máy bay trực thăng lượn qua lượn lại, thả dây kêu gọi ông di tản. Ông nhất quyết không đi, bởi tin rằng có Chúa che chở. Và nước ngập cuốn ông đi luôn. Ông gặp thánh Phêrô. Thánh Phêrô hỏi sao lại dạt vào đây. Ông già bực bội trách cứ, tại sao con đặt hết tin tưởng vào Chúa mà Ngài không cứu sống, lại để con chết trôi chết nổi thế này và ông yêu cầu thánh Phêrô mở cửa đưa ông vào Thiên đàng cấp tốc. Thánh Phêrô ngạc nhiên đáp lại: Chúa có cứu ông chứ! Ông có nghe đài báo tin không ? – Có. Ông nghe xe cứu thương kêu gọi không ? – Có. Ông có thấy ghe máy, trực thăng đến cứu không ? – Có. Tại sao ông bảo Chúa bỏ ông ?
8. Bệnh tùy hứng vô
định
Người không có lý
tưởng rõ ràng. Đời vô định hướng. Ai xúi thì nhắm mắt làm theo, bất kể hay
dở, khôn dại. Xong rồi phủi tay. Chẳng có dự án và chẳng có một người nào làm
lý tưởng cho đời mình. Đây là loại người tùy hứng.
Người ta hay nói đời
là một giấc mơ. Nhưng đời có thật là một giấc mơ không ? Mơ là chuyện mộng,
không bắt buộc phải hiện thực. Nhưng đời trái lại là cuộc sống thực tế của mỗi
người, bắt mình phải hoàn thành.
Thánh Kinh nói đến
giấc mơ của Thánh Giuse. Ông mơ thiên thần báo phải đem Hài nhi và mẹ người
trốn sang Ai Cập. Cái đặc biệt ở đây là Giuse đã thực hiện giấc mơ đó và nhờ
vậy Chúa Giêsu thoát chết.
Người trẻ cần có lý tưởng
và phải thực hiện cho bằng được. Nhưng phải định hướng cho trúng. Truyện kể
có người khi còn trẻ quyết tâm sẽ thay đổi cả thế giới. Khi đứng tuổi thấy
mình chả thay đổi được ai, bèn chuyển mục tiêu gần hơn: sẽ thay đổi gia đình
mình. Đến khi về già quay lại thấy mình cũng chả thay đổi được gia đình, mới
nhận chân ra rằng muốn thay đổi gia đình hay thế giới trước hết phải thay đổi
chính con người của mình đã !
9. Bệnh sống vô trách
nhiệm
Triệu chứng: thờ ơ
trước những khó khăn của Hội thánh và Quê hương, trước những đau khổ của
người khác. Chả thấy mình có trách nhiệm gì cả. Hoá ra những người mắc bệnh
này chẳng hiểu gì về phép Rửa, chẳng còn nhớ gì sứ mạng được trao qua phép
Rửa đó. Qua phép Rửa, được làm con Chúa, đó là Hồng ân, và phép Thêm sức làm
cho ta nên chiến sĩ của Chúa đó là trách nhiệm, mỗi người chúng ta được trao
ban cả Nước Trời trong lòng mình, đồng thời cũng được giao phó sứ mạng phải
loan báo cho mọi người về Nước Trời mình đang mang. Vì không ý thức và quan
tâm nên họ giữ đạo hời hợt, sống đạo một cách vô trách nhiệm.
Ngày xưa cha Hậu (cố
Olivier) ở Sàigòn thường nói với bổn đạo: Anh chị em phải biết, mình quả thật
sung sướng vì được Chúa cho cả Nước Trời trong lòng. Anh chị em cũng giống
như một người mang trong mình vé số độc đắc đã trúng mà chưa lãnh. Và bổn
phận của anh chị em là chia sẻ ân huệ và niềm vui đó cho người khác.
Mỗi người trong xã hội
đều có trách nhiệm riêng. Chứ không phải giáo dân thì cứ đổ cho cha xứ, linh
mục thì đổ cho giám mục, giám mục lại chỉ tay về Giáo hoàng. Như thế Giáo
hoàng lại đổ cho Chúa à ! Thái độ phủi tay không giải quyết được gì. Mà mỗi
người, tùy vị trí và hoàn cảnh riêng, trước hết phải xắn tay nắm lấy mà giải
quyết nhiệm vụ của mình.
10. Bệnh bè phái chia
rẽ
Đây là căn bệnh trầm
kha nhất. Vô cùng nguy hiểm vì nó thường là căn nguyên của các bệnh khác.
Một cơ thể mà các tế
bào chống nhau thì làm sao sống được. Nội bộ một cộng đoàn mà chưa hợp tác
với nhau được thì đừng nên bàn chuyện đấu tranh, giải phóng. Ai ở thôn quê
đều biết hoàn cảnh cấy lúa. Một mảnh ruộng cần cả chục người cấy suốt ngày.
Lưng đội trời nóng cháy da, tay xé lúa nhấn xuống bùn, bẩn và mệt. Nhưng cũng
miếng ruộng đó chỉ cần một người thôi là chỉ trong vòng vài ba tiếng đồng hồ
là nhổ sạch. Xây khó, phá rất dễ.
Một cách hay nhất để tránh
và chữa bệnh này là lắng nghe người khác, sẵn sàng chấp nhận cái khác của
người. Câu chuyện tổng thống Lincoln
nước Mỹ là một bài học. Trong cuộc chiến Nam Bắc, ngày nọ trước ba quân ông
xuống lệnh hành quân. Một anh sĩ quan phản đối và cho rằng Lincoln điên khi hạ lệnh đó. Có người vào
báo cáo. Lincoln
cả giận. Nhưng thay vì tức khắc cho thi hành kỷ luật đối với thuộc viên, ông
cho mời người đó vào. Và sau khi nghe trình bày phải trái, Lincoln đổi ý, trao trách nhiệm lớn cho vị
sĩ quan đó. Ông
biết lắng nghe nên đã tránh được đổ vỡ lớn cho binh sĩ và quốc gia.
Trong một giáo phận,
một cộng đoàn, một hiệp hội, việc làm tổn thương, mất giờ để giải quyết nhất
của Giám mục, của những người có trách nhiệm, là chứng bệnh triền miên bè
phái, chia rẽ – mà những người mắc bịnh thường vẫn tưởng mình đạo đức. Có
nhiều người “phạm tội vì Chúa”: lấy lý do “vì Chúa” mà loại trừ kẻ khác,
không thuộc phe
ta. Người Pháp đã nếm kinh nghiệm cay đắng tai hại của bịnh nầy nên có câu châm ngôn: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống kẻ khác”. Chúa Giêsu biết trước điều nầy nên Ngài tha thiết cầu xin trước giờ tử nạn: “Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để thế gian tin Cha đã sai con” (Gioan. 17, 21). Nếu ta không hiệp nhất thì thế gian không tin. Lời ông Gandhi đáng cho ta suy nghĩ: “Tôi yêu Chúa Kitô, nhưng tôi không yêu người Kitô hữu vì họ không giống Chúa Kitô”.
Tác giả: HY. Nguyễn Văn Thuận
Gio-an Nguyễn huy Hoàng sưu tầm và gởi đăng
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)