THƠ: DI NGÔN CỦA NGƯỜI TỬ NẠN




DI NGÔN CỦA NGƯỜI TỬ NẠN




Người Tử Nạn rướn mình trên Cây Gỗ
Không gian chừ đặc quánh đến mênh mông
Thời gian như dừng lại với vô cùng
Và đau đớn xem chừng đà bất tận.

Người Tử Nạn ngước mắt lên van vỉ:
Việc chúng làm, chúng không biết Cha ơi”(*)
Tiếng kêu thương chẳng động chút lòng người
Mà rúng động Thiên Cung muôn Thần Thánh.

Anh tử tội kề bên chừng tỉnh ngộ:
“Nhớ đến tôi khi về nước, Ngài ơi”
Quay sang anh, Người Tử Nạn hiền lành:
Anh sẽ ở, hôm nay trên Thiên Quốc”.

Có tiếng nấc nghẹn ngào, Người cúi xuống:
Vâng, thưa Bà, con Bà đấy, Bà ơi
Còn con yêu hãy nhận lấy mẹ hiền
Một lời nói mà ba lòng thổn thức.

Người Tử Nạn lại ngước nhìn Cao Thẳm:
Cha nhân từ, Cha nỡ bỏ con sao!”
Tiếng run run nghe như trách như hờn
Và Cao Thẳm bão lòng cuồn cuộn sóng.

Người mất máu sốt cao trong mê sảng
Giọng khàn đi khi cố nhếch môi khô
Người khát khao trong nỗi khát riêng mình
Trong cùng cực tận bồn chồn: “Ta khát”.

Nén đớn đau  Người rướn mình để thở
Trên chiếc giường thô nhám đứng chông chênh
Người nấc lên trong yếu nhược suy tàn:
Mọi sự đã hoàn thành” như gió thoảng.

Gom tàn lực Người nhìn Lên lần cuối:
Linh hồn con xin phó thác nơi Cha
Cả không gian ra thanh vắng lạ lùng
Vì Thiên Quốc sấp mặt quỳ, lặng lẽ!

Người Tử Nạn đã vào trong Bất Tử
Người muôn đời duy nhất đáng tôn vinh
Mà nghe Tên, quỷ hỏa ngục hoảng kinh
Và muôn gối mến yêu quỳ thờ lạy.
     ------------------------------------------
    Giu se Nguyễn Văn Sướng.

* Bảy Lời sau cùng của Chúa trên Thánh Giá.

THƠ: ĐÊM Ô-LIU.








 ĐÊM Ô-LIU.



Con tìm đến với vườn Dầu đêm tối

Chúa quỳ kia thinh lặng giữa mênh mông

Tiếng sói tru hay tiếng Quỷ gào đồng

Đêm tăm tối bủa vây ngàn Sự Dữ.



Trận chiến cuối giằng co sinh và tử

Hạt lúa mì giờ gieo xuống đất đen

Đêm không trăng tăm tối chẳng ánh đèn

Cô đơn quá bờ vai mang thế giới.



Nỗi thống khổ theo mồ hôi lăn tới

Đỏ như màu máu nóng của tim yêu

Tiếng kêu thương rúng động cả huyền siêu

“Xin đừng lấy ý con, Cha Thánh hỡi”.



Sương đêm dày phủ nặng vai phấp phới

Chút ấm lòng ai chia sẻ canh thâu!

Cảnh tiêu sơ rùng rợn đến nhiệm mầu

Cô đơn đến cả bóng mình cũng vắng.



Đã ràn rụa đêm nay tràn chén đắng

Chúa âm thầm cạn chén giữa đêm đen

Cha quay lưng, người bỏ mặc, phận hèn

Chỉ còn lại thân tội đồ gớm ghiếc!





 


 Người quỳ đấy im lìm thân đơn chiếc
Nước mắt này Người nuốt ngược trong tim

Vườn Ô-Liu đồng cảm cũng im lìm

Và trùng dế theo nhau cùng bặt tiếng.



Trăng sao ngàn khép mi nằm chết điếng

Cho đất trời tăm tối, tối tăm thêm

Đêm mất đi thi vị của êm đềm

Giờ cao điểm, giờ Ác Thần hoạt động.



Con lặng lẽ ngước trời cao lồng lộng

Mắt lệ tràn giọt thống hối ăn năn

Đêm Ô-Liu  còn nặng mãi trở trăn

Người hấp hối dưới đau thương vạn thuở.



Đêm Ô-Liu muôn đời đêm một thuở

Bóng Chúa quỳ mờ mịt giữa đêm sương

Cô liêu thay Con-Chúa-Cả-Thiên-Đường

Đêm ghi khắc bóng hình Người hấp hối.

   ---------------------------------

   Giu-se Nguyễn Văn Sướng.




TRUYỆN NGẮN: Người Thợ Điêu Khắc.





                             Người Thợ Điêu Khắc.
     
                                                    


      Ông sống tận cuối làng, cô đơn và khó tính. Không giao du qua lại với ai. Ngày lại ngày, có việc thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa. Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. Nguồn thu nhập chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng , nhiều ngôi chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả .
      Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm ông ngỡ ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha” giao tiếp với ông, Thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua!
      Ông Cha này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện. Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa Giê-Su cao một mét bảy.
      - Nhưng thưa ông, Chúa Giê-Su là ai, tôi không biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi?
     Vị Linh Mục thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề, giọng đầy phân vân:
    -Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng…Chúa! Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi cảm thấy xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết đấy, tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp…
       Vị Linh Mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách:
      - Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi, hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài.
                                         *
                                      *     *
       Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh Kinh  và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa là những lồi lõm của một người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ hình. Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút nào của sự oán trách, thù hận!
       Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong
cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím tái hẳn đi. hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở!
       Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm. Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần bụng thót lại làm ông thấy  khó khắc  hơn! Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn của Người Chịu Nạn! Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như vị này! Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này!
       Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó của bức tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ một Lời, thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!
        Hình như các vị Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì phải? Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự! cái điệp khúc “ Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy bảo của Người mới cao đẹp, mới  thánh thiện làm sao!
       Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông! Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông đốc chết ( * ), nhưng nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.
      Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của Chúa Giê-Su trong cả bốn quyển Tin Mừng. So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giê-Su phải chịu. Ông mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật. Răng nghiến lại? ừ, có thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng có bị méo đi không? Còn mắt? Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng? Mồ hôi và máu thì dĩ nhiên rồi!  Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “ Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” mà tâm hồn này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “ Con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện rằng: “ Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Một gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại!
      Từng nhát đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giê-Su đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng phục. Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì được Người nếu không phải chính Người tự nguyện chết thay cho nhân loại? Gương mặt Chúa Giê-Su thánh thiện và khả ái làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.
      Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt. Ông vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường. Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị.
                                         *
                                       *     *
      Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa!
      Ông bước xuống giường đi ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh sáng, một thứ ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà ông. Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…
                                           *
                                        *    *
       Phải đến hai ngày sau dân làng mới phát giác ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt ngước lên và tay ôm chặt chân tượng Thánh Giá.
     ------------------------------------------------------------
           Giu-Se Nguyễn Văn Sướng.
( * ) đốc chết: điềm gở báo sự chết gần tới.